Kinh tế nông nghiệp bao hàm cả nền kinh tế tri thức, kinh tế tương lai

Bộ trưởng Lê Minh Hoan phát biểu tại cuộc họp trực tuyến với các đối tác quốc tế về kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững. (Ảnh Nongnghiep.vn)

Ngành nông nghiệp Việt Nam đang hướng đến chuyển đổi từ nền nông nghiệp sản lượng cao sang nền nông nghiệp công nghệ cao, bảo đảm minh bạch và phát triển bền vững; chuyển từ chuỗi cung ứng sang chuỗi liên kết, chú trọng khâu sau thu hoạch, phát triển thị trường.

Tư lệnh ngành nông nghiệp Lê Minh Hoan khẳng định tại cuộc họp trực tuyến với các các đối tác quốc tế về kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững, diễn ra ngày 1/9.

Ba trụ cột để phát triển bền vững

Chia sẻ tại cuộc họp Bộ trưởng Lê Minh Hoan khẳng định: quá trình cơ cấu lại nền nông nghiệp của Việt Nam đã diễn ra trong nhiều năm và đạt được thành tựu rất tích cực.

Tuy nhiên, để ngành nông nghiệp thực sự trở thành “trụ đỡ” quan trọng của nền kinh tế, thực sự trở thành hình ảnh quốc gia và bảo đảm phát triển bền vững trong tương lai, thì phải có nhiều cách tiếp cận khác nhau.

“Giai đoạn tới, việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp không chỉ là mở rộng ngành hàng này hay thu hẹp ngành hàng kia mà phải tích hợp các giá trị, vừa mang giá trị địa phương, vừa mang giá trị toàn cầu; chuyển từ tư duy phát triển đơn ngành sang phương pháp tích hợp đa ngành, đa giá trị”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan lý giải thêm.

Chúng ta không nhìn nông nghiệp như một ngành kỹ thuật mà là ngành kinh tế gắn chặt các yếu tố văn hóa, xã hội và xu thế phát triển bền vững cũng như tư duy toàn cầu. Kinh tế nông nghiệp bao hàm cả nền kinh tế tri thức – kinh tế tương lai mà chúng ta đang sống, không chỉ dừng lại ở kinh tế cổ điển như bình thường.

Từ một dự án nghiên cứu về canh tác lúa tại Đồng Tháp, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nhận thấy hoạt động sản xuất lương thực của Việt Nam không chỉ gây phát thải khí nhà kính mà chi phí sản xuất ở mức cao. Đó cũng là vấn đề mà các tổ chức quốc tế rất quan tâm để giải quyết, qua đó xây dựng nền nông nghiệp có trách nhiệm.

“Đây là dẫn chứng và cũng là cảm hứng để không chỉ vấn đề canh tác lúa ở đồng bằng sông Cửu Long mà tất cả các hoạt động tạo ra nông sản phải áp dụng các quy trình và sử dụng yếu tố đầu vào hợp lý (như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật…) để không phá huỷ hệ sinh thái và đa tầng sinh học”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nhấn mạnh.

Ông cũng cho rằng, để làm được điều đó, ngành nông nghiệp phải đi theo xu thế kinh tế tuần hoàn, từ đó tận dụng phế, phụ phẩm nông nghiệp, tạo thêm nhiều việc làm ở nông thôn thông qua sự sáng tạo và phát triển các sản phẩm mới; xây dựng hệ sinh thái kinh tế nông thôn…

Đây chính là minh chứng về việc thực hiện cam kết của Chính phủ Việt Nam với thế giới để phát triển bền vững dựa trên ba trụ cột: kinh tế – xã hội và môi trường.

“Đây là một thách thức lớn đối với sự thay đổi tư duy và hành động của người dân Việt Nam bởi lâu nay người ta hay dùng từ “nghiện dùng thuốc bảo vệ thực vật” trong canh tác nông nghiệp tại Việt Nam”, người đứng đầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, thông qua dự án khuyến nông cộng đồng, các hoạt động tập huấn, đào tạo, người sản xuất và người tiêu dùng Việt Nam sẽ từng bước được nâng cao nhận thức.

Kinh tế nông nghiệp bao hàm cả nền kinh tế tri thức -0
 Bộ trưởng Lê Minh Hoan (giữa) cùng nguyên Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát (trái) và Thứ trưởng Lê Quốc Doanh chủ trì cuộc họp tham vấn giữa Bộ trưởng Bộ NN-PTNT và các đối tác quốc tế. (Ảnh: nongnghiep.vn)

Một cách tiếp cận nữa mà ngành nông nghiệp đang hướng đến, đó là chuyển từ nền nông nghiệp sản lượng cao sang nền nông nghiệp công nghệ cao, đảm bảo minh bạch và phát triển bền vững; chuyển từ chuỗi cung ứng sang chuỗi liên kết, chú trọng khâu sau thu hoạch, phát triển thị trường, tích hợp trong đó hàm lượng tri thức và giải quyết được các vấn đề nội tại của ngành hàng. Đây là sự sống còn đối với nền nông nghiệp Việt Nam.

Bộ trưởng Lê Minh Hoan cũng nhấn mạnh việc chú trọng phát triển không gian kinh tế nông thôn. Trong không gian đó, người nông dân không chỉ sản xuất nông nghiệp thuần tuý mà chúng ta phải tổ chức lại đời sống nông thôn, cộng đồng nông thôn, hình thành các hợp tác xã với năng lực quản trị mạnh dẫn dắt chuỗi giá trị ngành hàng nhỏ để bắt đầu tạo ra nhiều việc làm ở nông thôn; ở đó cũng có những doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp nông nghiệp… để tích hợp các giá trị nông sản.

Chuyển dịch sang sản xuất xanh

Bà Dina Umali – Deininger, Giám đốc phụ trách nông nghiệp khu vực Đông Á – Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế Giới (WB) cho rằng: Mặc dù giá trị xuất khẩu nông sản của Việt Nam liên tục tăng trưởng trong những năm qua và hiện nay đạt khoảng 42 tỷ USD/năm, tuy nhiên, tôi rất băn khoăn bởi hiện nay đóng góp của TFP cho tăng trưởng đang giảm xuống do nông dân sử dụng nhiều phân bón, thuốc trừ sâu… trong nông nghiệp.

Nhiều tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với những vấn đề như ô nhiễm nguồn nước, không khí, mặn hoá, giảm đa dạng sinh học và suy thoái đất…

Vậy chúng ta phải làm gì để Việt Nam trở thành môi trường tốt và sự chuyển đổi nông nghiệp ở gặt hái được những thành quả tốt hơn?

Kinh tế nông nghiệp bao hàm cả nền kinh tế tri thức -0
 Bà Dina Umali – Deininger, Giám đốc phụ trách nông nghiệp khu vực Đông Á – Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế Giới (WB).

Bà Dina Umali – Deininger cho rằng, chúng ta xác định nguồn lực để thúc đẩy tăng trưởng nhanh của ngành nông nghiệp Việt Nam chính là: công nghệ, chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả sử dụng nước, xây dựng thương hiệu sản phẩm, định vị lại giá trị nông sản ở thị trường khu vực và quốc tế.

Vậy đâu là lựa chọn để thúc đẩy một nền nông nghiệp xanh và cacbon thấp? Chúng ta cần tập trung “xanh hoá trong canh tác lúa và cây trồng quan trọng của Việt Nam. Do đó, phải quản lý các yếu tố đầu vào khoa học hơn, áp dụng các kỹ thuật canh tác tiên tiến như “một phải năm giảm”, cải thiện xử lý rơm rạ, chuyển từ sản xuất độc canh cây lúa sang sản xuất thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu, quan tâm hơn đến thị trường cacbon bởi Việt Nam vẫn còn dư địa giảm phát thải khí nhà kính. Với các mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ xanh, sản phẩm của Việt Nam cũng sẽ có cơ hội nâng giá trị cao hơn.

“Có nhiều điều chúng ta phải làm nữa, thí dụ như bảo đảm an ninh nguồn nước và phát triển dịch vụ thuỷ lợi; nếu an toàn hồ đập được cải thiện, chúng ta sẽ có nguồn nước cho tưới tiêu, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nước”, bà Dina Umali – Deininger nói thêm.

Theo ông Okabe Daisuke – Công sứ Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam: “Định hướng phát triển nông nghiệp bền vững, nông nghiệp có trách nhiệm và chuyển đổi xanh cũng tương đồng với chiến lược phát triển lương thực của Nhật Bản”.

Nhật Bản và Việt Nam đã có các chương trình hợp tác trong ngành nông nghiệp, cũng đã có hoạt động tích cực để thúc đẩy áp dụng công nghệ mới, công nghệ tiên tiến, phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp Việt Nam thông qua Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Ngư nghiệp Nhật Bản cũng như Chương trình Đối tác phát triển của JICA.

Ông Robert Hanson – Tham tán Nông nghiệp Đại Sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam, Việt Nam là quốc gia rất dễ bị tổn thương bởi tác động của biến đổi khí hậu. Do đó, để phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững, cần thúc đẩy hiệu quả công tác lãnh đạo quản lý, sự hợp tác của các bên liên quan. Bên cạnh đó, đổi mới, sáng tạo và công nghệ sẽ là chìa khoá để Việt Nam đạt được mục tiêu trên.

Thời gian qua, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) đã phối hợp các cơ quan, ban, ngành của Việt Nam để hỗ trợ các vấn đề liên quan đến phát triển hạ tầng sản xuất, ứng dụng công nghệ mới, các giải pháp canh tác nông nghiệp thông minh; hợp tác phát triển thuốc thú y, thủy sản và hỗ trợ xây dựng các văn bản pháp luật.

Điển hình nhất là sự phối hợp giữa USDA với các chuyên gia của Việt Nam trong việc phát triển vaccine dịch tả lợn Châu Phi, khắc phục hậu quả dịch tả lợn Châu Phi…

“Sự hợp tác của chúng tôi thời gian tới sẽ tiếp tục được phát triển và chúng tôi cam kết là đối tác mạnh mẽ tại Việt Nam”, ông Robert Hanson nói.

Theo Nhân dân

Bài viết liên quan

Gọi điện cho tôi Gửi tin nhắn Facebook Messenger Chat Zalo
Gọi ngay Form Liên hệ Messenger Zalo