Mặt hàng chè của Việt Nam xuất khẩu sang Pakistan có thể sử dụng giấy chứng nhận tiêu chuẩn và chất lượng do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp. Ngoài ra mặt hàng chè của Việt Nam xuất khẩu sang Pakistan phải đáp ứng một quy định đặc biệt về kiểm soát hàm lượng độc tố aflatoxin trong sản phẩm chè xuất khẩu. Tuy nhiên do nhu cầu thị trường đối với mặt hàng chè quá cao nên trên thực tế quy định này thường được các cơ quan quản lý hàng nhập khẩu Pakistan bỏ qua.

Hàng nhập khẩu vào Pakistan nói chung và mặt hàng chè nói riêng phải đạt tiêu chuẩn Hồi giáo (Halal). Hình dáng, bao bì, nhãn mác phải phù hợp với văn hóa Hồi giáo. Mặt hàng chè xuất khẩu sang Pakistan phải có giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn Hồi giáo do cơ quan có thẩm quyền cấp.

Tại Việt Nam có thể xin giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn Hồi giáo tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ. Có nhiều tổ chức cấp giấy chứng nhận tiêu chuẩn Hồi Giáo (Halal) với chi phí khác nhau. Doanh nghiệp cần tìm hiểu kinh nghiệm của các doanh nghiệp đã xuất khẩu sang thị trường Pakistan để có thông tin phù hợp.

Theo thông tin của doanh nghiệp nhập khẩu chè Pakistan trong khoảng 3 năm gần đây nhiều doanh nghiệp Việt Nam sử dụng hóa chất để nhuộm chè cho nước có mầu xanh phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng. Hậu quả là nhiều doanh nghiệp Pakistan đã ngừng mua chè của Việt Nam mà chuyển sang mua chè của Trung quốc, Bangladesh. Chính phủ Pakistan cũng bắt đầu siết chặt việc kiểm tra chất lượng chè nhập khẩu từ Việt Nam.

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong tháng 9/2020 cả nước xuất khẩu 13.457 tấn chè các loại, đạt 22,23 triệu USD, giá 1.652 USD/tấn, tăng 1,2% về lượng, tăng 1,7% về kim ngạch và tăng 0,5% về giá so với tháng 8/2020.Tính chung 9 tháng đầu năm 2020 xuất khẩu 98.075 tấn, thu về 157,14 triệu USD, giá trung bình 1.602 USD/tấn, tăng 4% về lượng nhưng giảm 4,8% về kim ngạch và giảm 8,5% về giá so với cùng kỳ năm 2019.

Xuất khẩu chè sang thị trường Pakistan đạt kim ngạch lớn nhất, với 29.260 tấn, tương đương 55,79 triệu USD, giá trung bình 1.906,8 USD/tấn, giảm 6% về lượng, giảm 10,5% về kim ngạch và giảm 4,7% về giá so với cùng kỳ năm 2019; chiếm 29,8% trong tổng khối lượng và chiếm 35,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu chè của cả nước.

Theo Tạp chí Công thương